Chứng chỉ quỹ

search
fmarket communityfmarket community

Nhà Đầu Tư Cá Nhân và Quỹ Đầu Tư

28/03/2022Lượt xem 428 Views
Chia sẻfacebooklinkedin
Nội dung bài viếtmuc luc
1.

Quỹ đầu tư nào dành cho cá nhân?

2.

Triển vọng nào cho quỹ đầu tư ở Việt Nam?

Rất nhiều nhà đầu tư cá nhân ở Việt Nam mới đây giật mình với dự kiến tăng lô giao dịch từ 100 lên 1000 của HoSE. Lý do được đưa ra là do hệ thống hiện hành bị quá tải. Không những thế, người đại diện của HoSE còn cho biết việc điều chỉnh này còn là để bảo vệ các nhà đầu tư nhỏ lẻ, qua việc nhà đầu tư cá nhân sẽ chuyển sang đầu tư chứng chỉ quỹ phát hành bởi các công ty quản lý quỹ chuyên nghiệp. Nhưng đây chỉ là một phần của bức ghép hình puzzle.

Quỹ đầu tư nào dành cho cá nhân?

Trên thị trường tài chính, tùy theo các tiêu chí mà có nhiều loại quỹ đầu tư khác nhau. Có thể liệt kê ra như quỹ ETF (Exchange Traded Fund), quỹ tương hỗ (Mutual Fund), quỹ hưu trí, quỹ đóng (Closed-End Fund), ủy thác đầu tư (Investment Trust), quỹ chuyên đầu tư trái phiếu, quỹ chuyên đầu tư cổ phiếu, quỹ chuyên đầu tư các chỉ số chứng khoán. Sự đa dạng phong phú của các quỹ đầu tư là nhằm đáp ứng rất nhiều nhu cầu khác nhau của nhà đầu tư, cả cá nhân và tổ chức. Nhưng nói rằng đầu tư chứng chỉ quỹ là để bảo vệ lợi ích nhà đầu tư nhỏ lẻ và để giảm nghẽn lệnh cho sàn giao dịch thì chỉ cho thấy một phần của bức ghép hình puzzle.

Thứ nhất, nhiều chứng chỉ quỹ được niêm yết như cổ phiếu, nên vẫn phải giao dịch theo lô. Những quỹ có danh mục toàn là các cổ phiếu bluechip thì mức giá cũng thường sẽ cao, lấy ví dụ như quỹ ETF của Vanguard chuyên về cổ phiếu công nghệ hiện có giá xoay quanh 350-370 USD. Ngoài ra, nhiều quỹ còn có quy định mức đầu tư tối thiểu nên không thể tiếp cận được với tất cả các nhà đầu tư cá nhân, có những quỹ không quy định mức tối thiểu nhưng nhiều quỹ quy định mức tối thiểu là 500 USD, 5000 USD hoặc thậm chí hàng chục ngàn USD.

Thứ hai, chứng chỉ quỹ cũng là một loại chứng khoán nên dĩ nhiên cũng ẩn chứa rủi ro. Và mức độ rủi ro không chỉ phụ thuộc vào các yêu tố chung của thị trường, mà còn là ở doanh nghiệp quản lý quỹ.

Chính vì vậy, các quỹ đầu tư đều có các chỉ số đo lường rủi ro, hiệu quả như tất cả các loại chứng khoán khác, từ Alpha, Beta, Max Drawdown, R2, VaR đến Sharpe ratio, Information ratio v.v.. Ngoài ra khác với cổ phiếu hay các loại chứng khoán khác, đầu tư vào quỹ thì nhà đầu tư phải mất thêm chi phí quản lý quỹ, và cái này có khi là ma trận đối với nhiều nhà đầu tư cá nhân. Nhiều quỹ đầu tư không minh bạch vấn đề này, không công bố công khai tổng chi phí ròng (Total Net Expenses) cho nhà đầu tư nhỏ lẻ được biết. Thứ ba, lợi nhuận hay hiệu quả của đầu tư vào quỹ hoàn toàn nằm ngoài khả năng kiểm soát của nhà đầu tư khi giao quyền quyết định cho người quản lý quỹ. Do đó, nhà đầu tư cá nhân cần theo dõi hiệu quả của quỹ đầu tư trong một khoảng thời gian nhất định, thường là 3 hay 5 năm, thông qua các chỉ báo rủi ro, hiệu quả, hay các chỉ số hiệu quả đã có điều chỉnh rủi ro.

Triển vọng nào cho quỹ đầu tư ở Việt Nam?

Theo số liệu từ Eikon (Thomson Reuteurs), hiện có 47 quỹ niêm yết ở Việt Nam, số lượng quỹ có trên 5 năm tuổi là 19, trên 3 tuổi là 29 và trên 1 tuổi là 41. Số lượng quỹ như vậy so với tổng số cổ phiếu niêm yết chỉ vào khoảng 7%. Tuy vậy, hiệu quả đầu tư của các quỹ có sự chênh lệch đáng kể. Nếu tính khung thời gian 3 năm trở lại đây, tỷ suất sinh lời của các quỹ niêm yết ở Việt nam là 4,5%/năm, có quỹ tỷ suất sinh lời âm nhưng có quỹ đạt mức cao nhất là 9%/năm. Đối với những quỹ có thâm niên trên 5 năm, tỷ suất sinh lợi trung bình của 5 năm gần đây là 12%/năm, đặc biệt có quỹ đạt mức trung bình 17,5%/năm. Điều này cho thấy việc đầu tư vào các quỹ cũng ẩn chứa nhiều mức độ rủi ro khác nhau.

Thêm vào đó, lợi nhuận ròng của nhà đầu tư vào quỹ phải cấn trừ các chi phí thực tế đã phát sinh. Đây cũng là lí do ở nhiều thị trường các quỹ đầu tư không chỉ cạnh tranh với nhau về hiệu quả sinh lời gộp, mà còn cạnh tranh với nhau ở tổng chi phí ròng, mức đầu tư tối thiểu, sự linh động trong việc quản lý, chuyển đổi, thanh lý quỹ.


icon-message